Con Của Noé (Éric Emmanuel Schmitt)

Con của Nóe là tác phẩm thừ 2 mà tôi gặp lại nhà văn Éric-Emmanuel Schmitt trong chủ đề về Thế chiến 2 sau Nửa kia của Hitler. Vẫn tiếp tục là cách trần thuật điềm tĩnh với những chi tiết gây xao động, tàn ác của chiến tranh mang lại cho người Do Thái và những đứa trẻ, nhưng Con của Nóe lại gây ấn tượng mạnh bằng việc ca ngợi tình người, một phép màu tưởng chừng là điều kỳ diệu và khó xảy ra giữa thời chiến, đặc biệt là giữa hai người khác đạo.

Tác phẩm có bối cảnh giai đoạn giữa và gần kết thúc thế chiến 2, các cuộc thảm sát Do Thái bắt đầu nổ ra tại Bỉ. Cậu bé Joseph Bernstein, 7 tuổi, con trai duy nhất của một gia đình làm nghề may đo có tiếng buộc phải chạy trốn. Để bảo vệ sự an toàn của Joseph, bố mẹ đã gửi cậu cho nữ bá tước Sully. Nhận thấy nguy hiểm từ sự dò xét của lính quốc xã, cậu lại được tiếp tục gửi cho Cha Pons, một vị linh mục trong làng.

Cùng với ông và người anh lớn Rudy, Joseph dần khám phá được tình bạn, và trên hết là giá trị văn hóa của mình. Cha Pons không chỉ cứu sống những đứa trẻ, ông chính là “Noé”, người đã cứu sống các sinh vật còn lại trên trái đất trước cơn đại hồng thủy nhân loại, để giống nòi tiếp tục sinh sôi và phát triển, Cha Pons đã cố gắng sưu tầm các đồ dùng, cổ vật, học những ngôn ngữ của các dân tộc đang có nguy cơ tiệt chủng để bảo tồn sự đa dạng và ghi lại lịch sử. Nhờ sự giúp đỡ của người dân, ông cứu giúp hơn 200 đứa trẻ Do Thái trong Thế chiến 2, che giấu thân phận của chúng với sự trợ giúp từ nữ dược sĩ Marcelle, người chuyên làm các giấy tờ giả cho những đứa trẻ mới đến nhằm che dấu quốc tịch của chúng.

Tầm vóc của tác phẩm chỉ hơn 150 trang chính là đã nhấn mạnh được hai điểm đặc biệt: đầu tiên là câu hỏi bản mệnh của cậu bé Joseph về thân phận người Do Thái của mình trong thời gian Cha Pons bí mật dạy tiếng Hebrew, và quan điểm về tôn giáo được chia sẻ bởi hai người “Tôn giáo không đúng, không sai, nó chỉ đưa ra cách sống”. Trong không khí căng thẳng của cuộc chiến, sự yên bình chỉ len lỏi giữa khu làng và nhà thờ Villa Jaune, nơi nuôi sống những đứa trẻ lạc gia đình, hoặc có bố mẹ đã chết. Nhưng hơn hết, đây là nơi mang đến niềm hi vọng, cũng như niềm tin vào sự tốt đẹp của con người, ánh sáng của bình minh chỉ thực sự phát sáng khi chúng ta nghĩ rằng tình yêu và lòng tốt vẫn còn tồn tại. 

Con của Nóe, với sức mạnh nằm trong kiến thức và ngôn từ, đã cho người xem nhận ra một cuộc dàn xếp khả thi giữa hai tôn giáo vốn đang nằm hai đầu chiến tuyến. “Người Do Thái và người Công giáo cùng tin vào một vị Chúa trời, người đã đọc cho Moise bảng đá khắc Luật. Nhưng người Do Thái không thừa nhận Jesus là đấng cứu thế, là đặc sứ của Chúa trời mà họ chờ đợi; họ chỉ coi đó là một nhà hiền triết Do Thái mà thôi… Như vậy, với người Công giáo, đó là chuyện trong quá khứ; với người Do Thái, đó là chuyện tương lai. Và người Công giáo là những người tưởng nhớ, người Do Thái là những người còn hi vọng”.

Dù bối cảnh chỉ gói gọn trong một ngôi làng, nhưng Con của Nóe đã phản ánh được thực trạng đau lòng của Thế chiến 2, đó là sự vô nhân tính của chiến tranh đã giáng xuống đầu nhưng đứa trẻ, điều mà tôi đã từng xót xa khi đọc cuốn Chú bé mang pyjama sọc của nhà văn người Ireland, John Boyne. Tuy chọn cách khai thác nhẹ nhàng, kém bạo liệt hơn, ít tàn nhẫn hơn, nhưng tôi vẫn run lẩy bẩy khi đọc đến những đoạn quân lính khám xét nhà thờ để tìm những đứa trẻ ngoại đạo hoặc quân kháng chiến ẩn nấp mà chúng nghi ngờ. Ánh mắt ngây thơ, những luồng suy nghĩ táo bạo của từng đứa trẻ, đối lập với ánh mắt sát thương là điều mà Eric đã khắc họa rất hay. Nhưng ngay cả khi chúng ta đều nghĩ mọi người lính phát xít đều tàn bạo, thì nhà văn vẫn nhen nhóm tia hi vọng từ một tên lính vẫn còn biết mỉm cười trước những đứa trẻ đang trần truồng tắm trong nhà chung, điều mà ông ấy dễ dàng nhận thấy những đứa trẻ Do Thái đang ở đây.

Leave a Reply

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.